Link Download:
https://docs.google.com/document/d/e/2PACX-1vSpKGoX8vom8znoln-3bzomJHZU_LnSqR_2c-QHyyX7ys70yJicFHEZlIYvCEZ0Nw/pub
“Một số
giải pháp nhằm phát
triển phẩm chất,
năng lực người học trong môi trường giáo dục thông minh
ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu ”
ThS. Cù Thị Như Ý
Đơn vị công tác: Trường THPT Nguyễn Huệ
Email: nhuyhaiphong@gmail.com
Số Điện
thoại: 0989017243
Đặt
vấn đề
Phẩm chất và năng
lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói chung và là yếu tố
nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Do vậy, trong mọi thời đại, các
chương trình giáo dục được áp dụng, tuy có khác nhau về cấu trúc, phương pháp
và nội dung giáo dục... nhưng đều hướng tới mục tiêu nhân cách. Trong đó việc
hình thành phẩm chất và năng lực con người (đức, tài) được quan tâm nhấn mạnh. Qua
các thời kỳ với các giai đoạn lịch sử khác nhau, yêu cầu về nhân cách nói chung
và phẩm chất, năng lực nói riêng của con người với tư cách là thành viên trong
xã hội cũng có những thay đổi phù hợp với đòi hỏi của thời đại.
Hiện nay, trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những tác động
tích cực của nền kinh tế tri thức và tiến bộ của thông tin, truyền thông, giáo
dục cần phải giúp người học hình thành một hệ thống phẩm chất, năng lực đáp ứng
được với yêu cầu mới. Hệ thống phẩm chất, năng lực đó được cụ thể hóa phù hợp
với sự phát triển tâm lý, sinh lý của người học, phù hợp với đặc điểm môn học
và cấp học, lớp học.Theo đó, những phát triển của phẩm chất, năng lực người học
trong quá trình giáo dục cũng sẽ là quá trình hình thành, phát triển, hoàn
thiện nhân cách con người. Theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, nền giáo dục nước ta cũng đang trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo. Mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực người học được
nhấn mạnh và trở thành kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới giáo dục. Xuất phát từ
những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài tham luận: “Một số giải pháp nhằm phát triển phẩm chất, năng lực người học trong
môi trường giáo dục thông minh ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu” .
Nội
dung
1. Một số khái niệm liên quan
Theo từ điển Tiếng
Việt thì phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật. Hoặc: Phẩm chất là
những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị cuộc sống; ý
thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo dục. Cũng
theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hoặc: Năng lực là khả năng
huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công
việc trong một bối cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực
đặc thù. Năng lực chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng
cần phải có để sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng
lĩnh vực khác nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành và
phát triển do đặc điểm của môn học đó tạo nên.
Sự bùng nổ tri thức
khoa học và công nghệ đã đưa nhân loại đến một nền văn minh trí tuệ. Sự tiến bộ
xã hội không chỉ đo bằng công nghệ hoặc mức sống vật chất, mà bằng cả những
chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, môi trường, văn hoá, tinh thần... Con người là
trung tâm của sự phát triển, là động lực phát triển của xã hội. Nền kinh tế thế
giới cũng như khu vực ngày càng hội nhập, toàn cầu hóa. Ở đây, giáo dục được
nhận thức như một động lực, một đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Trong quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập, thực chất cạnh tranh giữa các quốc gia là cạnh
tranh về chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì vậy, đổi mới giáo dục đang là một
xu thế tất yếu mang tính toàn cầu. Địa phương nào không đổi mới, sẽ mất khả
năng cạnh tranh trên trường quốc gia và quốc tế và sẽ bị tụt hậu xa hơn. Đổi
mới giáo dục ở Bà Rịa – Vũng Tàu là một tất yếu khách quan để hội nhập, mở cửa
và phát triển.
Luật Giáo dục
(2019) xác định: Mục tiêu giáo dục của nước ta là “phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa,
sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. Theo đó, các phẩm
chất, năng lực cần phát triển toàn diện là:
Đức dục: là việc
giáo dục đạo đức cho con người. Trí dục: là việc giáo dục tri thức cho con
người. Thể dục: là việc giáo dục phát triển thể chất cho con người. Đây là một
trong 8 lĩnh vực cần học của học sinh và là lĩnh vực bắt buộc 12 năm, từ lớp 1
đến lớp 12. Cần chống lại tư tưởng cho rằng, môn Thể dục là môn phụ.“Trí tuệ
vận động” là một trong 8 loại trí tuệ mà Howard Gardner (Mỹ) đã công bố trong
"lý thuyết đa trí tuệ". Mỹ dục: là giáo dục về cái đẹp, làm cho con
người biết thưởng thức, biết thể hiện cái đẹp.
Giáo dục tình cảm: Con người khỏe mạnh, cường
tráng, cần có một tâm hồn lành mạnh, trưởng thành và thăng bằng về tình cảm;
chấp nhận mình và người khác với tất cả khả năng và sở trường, không tự cao hay
tự ti, biết biểu lộ tình cảm đúng mực và biết kiềm chế cảm xúc để tránh hành
động sai trái.
Giáo dục xã hội: Về
mặt xã hội, học sinh cần có được các cung cách, tư thế, cách xử sự, sự hiểu
biết, các kỹ năng và thái độ cần thiết để có thể thích nghi với đời sống xã
hội, giao tiếp với mọi người một cách tự nhiên, thân thiện và hợp tác.
Giáo dục nghề
nghiệp: Con người muốn sống được, sống tốt thì không chỉ có kiến thức và kỹ
năng, mà phải biết một số nghề nào đó. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
đã mở ra rất nhiều cơ hội cho ngành Giáo dục và Đào tạo (GDĐT).Bên cạnh những
cơ hội, những thuận lợi, cũng xuất hiện rất nhiều những khó khăn, thách thức
cho người dạy, người học, các bậc phụ huynh, người quản lý giáo dục và người
quản trị trường học. Mối giao lưu giữa người và người trong môi trường công
nghệ thông tin (CNTT), đã trở thành tương tác hai chiều với các phương tiện đa
truyền thông (multimedia) như âm thanh, hình ảnh, video... mà đỉnh cao là học
trực tuyến qua mạng (E-learning). Những khả năng ưu việt này của CNTT đã nhanh
chóng làm thay đổi cách làm việc, thay đổi cách dạy, cách học, cách tư duy và
thay đổi cả cách ra quyết định của con người.
2. Thực trạng chất lượng giáo dục tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Trong những năm
qua, được sự quan tâm rất đặc biệt của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ VN tỉnh, các
Sở, Ban, Ngành và các địa phương, Ngành GDĐT tỉnh nhà đã đạt được nhiều thành
tựu rất đáng trân trọng. Hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
từ Mầm non, Phổ thông, GDTX, đến Cao đẳng, Đại học được đầu tư khang trang,
hiện đại, cơ bản đã đáp ứng tốt nhu cầu học tập của người dân. Công tác quản lý
giáo dục và xây dựng đội ngũ có những chuyển biến tích cực. Đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục ngày càng tăng về số lượng, từng bước được nâng cao về
chất lượng. Liên tục nhiều năm liền, từ năm 2010 đến nay Ngành GDĐT tỉnh được
Bộ GDĐT tặng cờ thi đua xuất sắc.
Chất lượng GDĐT ở
các cấp học được ổn định và ngày càng phát triển; tỷ lệ học sinh khá giỏi tăng,
tỷ lệ học sinh yếu kém giảm qua các năm; học sinh giỏi quốc gia tăng đều qua
từng năm; kết quả của kỳ thi cao đẳng, đại học luôn ở top các tỉnh có chất
lượng cao của cả nước.
Chất lượng phổ cập
giáo dục được củng cố và duy trì bền vững: tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học mức 3/3; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức
độ 2; đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi năm 2013, về trước mục tiêu
của tỉnh đặt ra 2 năm.
Chất lượng giáo dục
mũi nhọn được cải thiện. Đầu những năm 2000, Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh mạnh về
kinh tế, vì vậy Bộ GDĐT xếp thi học sinh giỏi văn hóa vào bảng A, có năm tỉnh không
có giải. Sở GDĐT đã xin Bộ chuyển sang bảng B để thi. Đã hơn chục năm qua Bộ tổ
chức thi chung 1 đề, kết quả học sinh giỏi văn hóa quốc gia năm sau cao hơn,
chất lượng hơn năm trước. Các môn tiếng Anh, Toán và Sinh học kết quả hàng năm
chúng ta rất cao. Chúng ta không chỉ có học sinh đạt giải nhất quốc gia mà còn
có cả học sinh đạt giải nhất, thủ khoa, huy chương vàng quốc tế. Bộ GDĐT, nhiều
địa phương trong cả nước đã có một cái nhìn khác về Bà Rịa – Vũng Tàu. Những
thành quả tuyệt vời ngày hôm nay, đó là “qủa ngọt” từ những chính sách rất đặc
biệt của Tỉnh Ủy, HĐND, UBND tỉnh dành cho Ngành GDĐT.
Tuy vậy, GDĐT tỉnh
nhà còn nhiều khó khăn, bất cập, tồn tại. Đổi mới toàn diện GDĐT bao gồm: đổi
mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, đổi mới các điều kiện để thực
hiện GDĐT, đổi mới cả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, quản trị và điều
hành. Thế nhưng không phải ai cũng có thể hiểu đúng, hiểu đầy đủ những nội dung
yêu cầu theo chỉ đạo của Nghị quyết 29- NQ/TW của BCH trung ương Đảng, và
Chương trình hành động 02-CTr/TU của Tỉnh ủy.
Kết quả
khảo sát cho thấy đa số CBQL và GV đều tâm huyết, mong muốn được đổi mới toàn
diện GDĐT, nhưng lại lúng túng không biết nên đổi mới cái gì, đổi mới như thế
nào và bắt đầu từ đâu ? Hơn nữa, quá trình đổi mới toàn diện GDĐT chịu sự tác
động trực tiếp của những cách thức quản trị của CBQL. Tiếp cận từ góc độ giáo
dục toàn diện, có thể thấy rằng các trường học phần lớn mới dừng lại ở chủ
trương đổi mới, còn thiếu những giải pháp cụ thể để tác động và liên kết được người
dạy với người học, chưa tạo được động lực của việc đổi mới giáo dục toàn diện,
chưa lựa chọn những nội dung đổi mới thiết thực và có trọng tâm, chưa tổ chức
các hoạt động đổi mới một cách khoa học và hiệu quả, vì thế chưa đủ để tạo nên
một bước chuyển biến mang 5 tính đột phá thực sự về chất lượng giáo dục toàn
diện – “dạy chữ kết hợp dạy người” ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Một số giải pháp
Từ những
cơ sở lý luận, những đánh giá khái quát về thực trạng, chúng tôi xin đề xuất
một số giải pháp chủ yếu để phát triển phẩm chất, năng lực người học trong môi
trường giáo dục thông minh ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu” như sau:
Thứ nhất: Truyền thông một cách hiệu quả
để các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, đội ngũ CBQL, các nhà giáo, phụ
huynh, học sinh và toàn xã hội hiểu đúng và đầy đủ chủ trương về đổi mới toàn
diện GDĐT. Các cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp, các cơ sở GDĐT trong toàn tỉnh
triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban chấp hành TW Đảng, về đổi mới căn bản và
toàn diện GDĐT và Chương trình hành động số 02-CTr/TU của Tỉnh ủy thực hiện
Nghị quyết 29-NQ/TW; triển khai Nghị quyết 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của
Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đến các Chi
bộ, Đảng bộ, cơ quan, đơn vị một cách đầy đủ, bài bản và có kế hoạch cụ thể để
tổ chức thực hiện ở từng địa phương, đơn vị. Các cơ quan truyền thông như Đài
phát thanh truyền hình tỉnh, Báo Bà Rịa – Vũng Tàu có kế hoạch phối hợp với
ngành GDĐT mở các chuyên mục, chuyên đề về những nội dung đổi mới GDĐT. Tuyên
truyền để mọi người hiểu đúng và thực hiện các hoạt động đổi mới của Ngành; nêu
các gương điển hình tốt, các bài học hay để các đơn vị và cá nhân trong và
ngoài ngành GDĐT tham khảo và thực hiện. Ngành GD phải chủ trì trong các hoạt
động tham mưu, phối hợp và chủ động triển khai trong toàn Ngành.
Thứ hai: Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ đủ năng lực và phẩm chất thực hiện nhiệm vụ đổi mới. Xây dựng kế hoạch:
Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu giai đoạn 2020-2025 định hướng đến năm 2030. Cần có những
quy định riêng trong tuyển dụng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, theo định
hướng coi trọng phẩm chất, năng lực sư phạm kể cả năng lực ngoại ngữ và tin
học. Tổ chức bồi dưỡng theo định kỳ cho đội ngũ CBQL, GV, giảng viên cập nhật
những kiến thức, kỹ năng giáo dục, đào tạo, công nghệ, kỹ thuật mới. Tổ chức
thật tốt Kế hoạch đào tạo đội ngũ giáo viên Mầm non, Tiểu học, THCS theo yêu
cầu của Luật giáo dục mới (2019). Hàng năm Sở GDĐT phối hợp các huyện, thị xã,
thành phố rà soát và đề xuất UBND tỉnh bổ sung, điều chỉnh để phù hợp thực tiễn
của mỗi địa phương. Hình thức thực hiện công tác bồi dưỡng phải đa dạng, phong
phú, linh hoạt nhằm mang lại hiệu qủa cao nhất. Vừa tổ chức lớp học trực tiếp
vừa tổ chức học tập trực tuyến, học từ xa qua mạng Internet... Trong giai đoạn
hiện nay, khoa học và kỹ thuật phát triển như vũ bão, một yêu cầu cấp thiết là
phải hình thành cho đội ngũ những kỹ năng tự học, tự bồi dưỡng, bồi dưỡng
thường xuyên và suốt đời để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của Ngành trong từng
giai đoạn.
Thứ ba: Đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp ủy Đảng và Chính quyền địa phương, đổi mới công tác quản lý,
điều hành và quản trị trường học của các cơ sở GDĐT. Các cấp ủy Đảng và Chính
quyền dựa trên các văn bản chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh, triển khai kịp thời
đến các đơn vị trực thuộc, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và các đơn vị
trường học. Có kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát và tổ chức giao ban theo
định kỳ để có những chỉ đạo điều chỉnh phù hợp với thực tiễn của địa phương,
đơn vị. Các cơ sở GDĐT phải xây dựng Chiến lược phát triển đơn vị trong 5 năm,
tầm nhìn đến 10 năm. Cụ thể hóa Chiến lược bằng những kế hoạch cụ thể mỗi năm
học, mỗi học kỳ và chi tiết đến từng tháng, từng tuần.Triển khai các kế hoạch
một cách triệt để, trách nhiệm và hiệu quả. Có cơ chế cụ thể để chỉ đạo, hướng
dẫn, tổ chức, thanh tra, kiểm tra, đánh giá việc triển khai thực hiện các hoạt
động “dạy người”, phát triển phẩm chất và năng lực riêng cho học sinh. Tuyển
chọn người đứng đầu, cấp phó người đứng đầu thực sự có năng lực, trách nhiệm,
tâm huyết, năng động và sáng tạo. Thực hiện tốt việc thu nhận và xử lý các
thông tin trong quản lý GDĐT; xây dựng các tiêu chí khoa học để đo lường mức độ
hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về
GDĐT và của các cơ sở GDĐT.
Thứ tư: Đổi mới các hoạt động dạy của
thầy, học của trò theo định hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học. Chuyển từ chủ yếu là dạy kiến thức sang dạy để nhằm phát triển
tốt nhất phẩm chất, năng lực của người học. Triển khai chất lượng và hiệu quả
chương trình GDPT mới. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày
28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông. Thực hiện bài bản, nghiêm túc việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình
thức dạy học theo chương trình GD phổ thông mới. Đổi mới phương pháp, hình thức
quản trị trường học để thực hiện hiệu quả và chất lượng chương trình GD phổ
thông mới. Triển khai mạnh mẽ ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và các
hoạt động GDĐT; lấy ứng dụng CNTT và sử dụng công nghệ dạy học mới Elearning
làm khâu đột phá trong đổi mới phương pháp dạy và học.
Thứ năm: Có chính sách khuyến khích, tạo
động lực cho thầy và trò trong các hoạt động đổi mới toàn diện GDĐT. Tham mưu
Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh những chính sách cần thiết tạo động lực cho đội ngũ
trong Ngành thực hiện các nhiệm vụ trong tình hình và nhiệm vụ mới hiện nay.
Mỗi trường học, mỗi địa phương cũng phải xây dựng các chính sách cho riêng đơn
vị mình. Trong quản trị trường học phải có kế hoạch bồi dưỡng, tạo điều kiện
cho đội ngũ trẻ, tâm huyết, có năng lực được thể hiện năng lực, được sáng tạo,
được cống hiến vì các hoạt động đổi mới toàn diện nhà trường. Quan tâm đến việc
tạo động lực cho học sinh trong các hoạt động giáo dục toàn diện, đặc biệt các
hoạt động giáo dục phẩm chất, đạo đức, tư tưởng, chính trị, các hoạt động giáo
dục kỹ năng sống, thể dục thể thao, giáo dục thẩm mỹ, các hoạt động kích thích
sự đổi mới, sáng tạo của người học…
Thứ sáu: Tiếp tục triển khai thật tốt,
thật hiệu quả các chủ trương, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh về dạy tiếng Anh,
đưa các hoạt động tư vấn tâm lý, xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, thân
thiện; các hoạt động thể dục, thể thao; xây dựng văn hóa đọc trong nhà trường;
các hoạt động văn hóa, văn nghệ… ở các trường học. Ngành GDĐT cần rà soát lại
tất cả các nội dung chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh trong nhiệm kỳ vừa
qua. Có những nội dung chúng ta đã làm rất tốt, song vẫn còn nhiều việc làm chưa đến
nơi, đến chốn. Cần xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công bố trí các nguồn lực:
nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực… để tổ chức thực hiện. Thường xuyên chỉ
đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm trong mỗi
tháng, mỗi học kỳ, từng năm học.Khen xứng đáng những tập thể và cá nhân làm tốt
tạo động lực, tạo năng lượng tích cực; xem xét đánh giá có thể có hình thức xử
lý kỷ luật với những tập thể, cá nhân không có những giải pháp cách làm chuyển
biến tích cực để phát triển.
Thứ bảy: Chú trọng công tác giáo dục hướng
nghiệp và phân luồng học sinh. Tăng cường các hoạt động tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về hoạt động TVHN cho HS. Xây dựng nhận thức
đúng đắn cho các tổ chức, các tầng lớp xã hội về công tác TVHN cho HS. Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức giúp học sinh hiểu lao
động trong lĩnh vực nào cũng cần thiết, được tôn trọng và đãi ngộ xứng đáng nếu
có tay nghề cao, làm việc hết mình. Thông qua các buổi học nghề, tham quan
ngoại khóa, các buổi tọa đàm hay các diễn đàn về nghề để tuyên truyền TVHN cho HS nhận thức được tầm quan trọng của việc chọn ngành, chọn nghề, từ
đó các em có những hiểu biết về các ngành nghề trong xã hội, định hướng đúng về
nghề tương lai.
Thứ tám: Các cơ sở giáo dục chủ động,
tích cực mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm. Đẩy
mạnh hợp tác trong nghiên cứu khoa học, liên kết đào tạo, liên thông chương
trình để thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế trong Giáo dục và Đào tạo của
Việt Nam giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2045. Tăng cường công tác quản lý đối với
các chương trình liên kết giáo dục ở các cấp học, các cơ sở giáo dục và đào tạo
có vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động tư vấn du học tại Tỉnh.
Kết luận
Đổi mới toàn diện chất lượng GDĐT đang là hướng còn có nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục nghiên cứu và khám phá. Hoạt động đổi
mới toàn diện chất lượng GDĐT là hiệu quả, chỉ đạt được khi nó trở thành hoạt
động thường xuyên của đội ngũ CBQL, giáo viên và học sinh. Vậy nên, mỗi nhà
trường, và toàn Ngành GDĐT trong tình phải tổ chức các hoạt động đổi mới “dạy
chữ kết hợp dạy người” một cách thường xuyên, liên tục. Phải làm sao để các
hoạt động này trở nên là bình thường, thường xuyên, không thể thiếu được trong
mỗi nhà trường trong toàn tỉnh. Các giải pháp nói trên đều có tính độc lập
tương đối do có tính đặc thù và ý nghĩa của mỗi giải pháp. Tuy thế, giữa các
giải pháp luôn có mối quan hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng, thúc đẩy lẫn nhau
theo cùng hướng đích là để thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo của Tỉnh và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên địa bàn tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.